Lịch sử Internet Explorer

Internet Explorer 3.0.1 dành cho Windows 3.1

Dự án Internet Explorer được bắt đầu vào mùa hè năm 1994 bởi Thomas Reardon và sau đó do Benjamin Slivka làm trưởng nhóm, lấy ý tưởng mã nguồn từ Spyglass, Inc. Mosaic, một trình duyệt web thương mại có mặt từ sớm với hình thức gắn liền với trình duyệt tiên phong Mosaic của NCSA. Vào cuối năm 1994, Microsoft đã xin được phép từ Spyglass Mosaic với sự hỗ trợ chi phí hàng quý cùng với một số phần trăm trong lợi nhuận thu được từ các sản phẩm không phải Windows của Microsoft để đổi lấy phần mềm. Mặc dù có tên tương tự như Mosaic của NCSA, Spyglass Mosaic dùng không nhiều mã nguồn của NCSA Mosaic[7].

Internet Explorer 1

Internet Explorer 1 ra mắt vào tháng 8 năm 1995. Nó là phiên bản chỉnh sửa của Spyglass Mosaic mà Microsoft đã có phép, giống như nhiều công ty khác bắt đầu việc phát triển trình duyệt cho riêng mình, từ Spyglass Inc. Nó đi kèm với Microsoft Plus! for Windows 95 và bản phát hành OEM của Windows 95. Phiên bản này được cài đặt thành một phần của Internet Jumpstart Kit trong Plus![8]. Nhóm Internet Explorer bắt đầu khoảng sáu người trong giai đoạn phát triển đầu tiên[4][5]. Internet Explorer 1.5 được phát hành vài tháng sau đó dành cho Windows NT và bổ sung tính năng hỗ trợ hiển thị bảng biểu cơ bản. Tuy nhiên, với việc đưa kèm miễn phí nó vào hệ điều hành, họ không phải trả tiền bản quyền cho Spyglass Inc., dẫn đến kiện cáo làm tiêu tốn hàng triệu đô la Mỹ.[9]

Internet Explorer 2 được phát hành dành cho Windows 95, Windows NT 3.5, và NT 4.0 vào tháng 11 năm 1995 (sau bản 2.0 beta vào tháng 10). Nó hỗ trợ SSL, cookie, VRML, RSA, và nhóm tin Internet. Phiên bản 2 cũng là bản phát hành đầu tiên dành cho Windows 3.1 và Macintosh System 7.0.1 (PPC hay 68k), mặc dù phiên bản Mac không được phát hành cho đến tháng 1 năm 1996 dành cho PPC, và tháng 4 dành cho 68k[10]. Phiên bản 2.1 dành cho Mac ra mắt vào tháng 8 năm 1996, mặc dù vào thời điểm đó Windows đã lên đến phiên bản 3.0. Phiên bản 2 được kèm trong Windows 95 OSR 1 và Internet Starter Kit for Windows 95 của Microsoft vào đầu năm 1996[11]. Phần mềm phát hành với 12 ngôn ngữ trong đó có tiếng Anh nhưng nó mở rộng ra đến 24, 20, và 9 lần lượt cho các phiên bản dành cho Win 95, Win 3.1 và Mac vào tháng 4 năm 1996[12]. Bản 2.0i hỗ trợ bộ ký tự byte kép.

Thị phần người dùng của Internet Explorer, 1994–2010[13]

Internet Explorer 3, phát hành vào tháng 8 năm 1996, và tiếp tục nổi tiếng hơn người tiền nhiệm. Nó được phát triển mà không dùng mã nguồn Spyglass, mặc dù vẫn ghi công cho "công nghệ" Spyglass trong tài liệu của chương trình. Internet Explorer 3 là trình duyệt lớn đầu tiên có hỗ trợ CSS, mặc dù còn hạn chế. Được phát hành vào ngày 13 tháng 8 năm 1996, nó cũng cho ra mắt tính năng hỗ trợ ActiveX controls, Java applet, đa phương tiện nhúng, và hệ thống PICS dành cho nội dung siêu dữ liệu (metadata). Phiên bản 3 cũng được đóng gói chung với Internet Mail and News, NetMeeting, và phiên bản đầu tiên của Windows Address Book, và nó cũng kèm trong Windows 95 OSR 2. Phiên bản 3 đã chứng tỏ mình là phiên bản nổi tiếng hơn của Internet Explorer, nhờ sự chăm chút kỹ lưỡng cho nó. Trong nhiều tháng sau khi ra mắt, một số lỗ hổng bảo mật và riêng tư được các nhà nghiên cứu và hacker tìm thấy. Phiên bản này của Internet Explorer là phiên bản đầu tiên có logo "chữ e màu xanh".[8] Nhóm Internet Explorer bao gồm 100 người trong suốt quá trình 3 tháng phát triển[4]. Lỗ hổng bảo mật IE lớn đầu tiên, Princeton Word Macro Virus Loophole, được khám phá vào ngày 22 tháng 8 năm 1996 trong IE3[14]. Tính năng tương thích ngược xử lý bằng cách cho phép những người nào nâng cấp lên IE3 vẫn có thể sử dụng IE trước đó, vì quá trình cài đặt đã chuyển phiên bản trước vào thư mục riêng rẽ[15].

Internet Explorer 4, phát hành vào tháng 9 năm 1997 đào sâu hơn mức độ tích hợp giữa trình duyệt web và hệ điều hành phía dưới. Việc cài đặt phiên bản 4 trên máy Windows 95 và Windows NT 4 và chọn Windows Desktop Update có thể dẫn đến việc Windows Explorer truyền thống bị thay bằng một phiên bản trông giao diện như trình duyệt web, cũng như màn hình nền Windows cũng trở thành web được thông qua Active Desktop. Tuy nhiên, sự tích hợp với Windows là chủ đề của rất nhiều những chỉ trích về đóng gói (xem Hoa Kỳ kiện Microsoft). Tùy chọn này không còn tồn tại với các bản cài đặt dành cho các phiên bản sau của Internet Explorer nhưng vẫn không bỏ ra khỏi hệ thống được nếu đã cài đặt rồi. Internet Explorer 4 ra mắt sự hỗ trợ Group Policy, cho phép các công ty cấu hình và khóa nhiều chức năng cấu hình của trình duyệt. Internet Mail and News được thay bằng Outlook Express, và Microsoft Chat và một phiên bản NetMeeting cải tiến cũng được đính kèm. Phiên bản này cũng kèm trong Windows 98. Các tính năng mới được thêm vào cho phép người dùng lưu và truy xuất các nội dung đăng trong các mẫu bình luận mà đến nay vẫn không được sử dụng. Internet Explorer 4.5 có thêm các tính năng mới như mã hóa 128-bit dễ dàng hơn. Nó cũng có sự phát triển vượt bậc về độ ổn định so với các phiên bản trước, đặc biệt là phiên bản 68k hoàn toàn không bị treo[16][17][18].

Internet Explorer 5, phát hành vào ngày 18 tháng 3 năm 1999, và sau đó được kèm trong Windows 98 Second Edition và đóng gói chung với Office 2000, là một phiên bản nổi bật khác có hỗ trợ văn bản hai hướng, ký tự ruby, XML, XSLT và khả năng lưu trang web dưới định dạng MHTML. IE5 được đóng gói với Outlook Express 5. Ngoài ra, với việc phát hành Internet Explorer 5.0, Microsoft cũng phát hành phiên bản XMLHttpRequest đầu tiên, khai sinh ra Ajax (mặc dù thuật ngữ "Ajax" vẫn không xuất hiện cho đến vài năm sau). Nó là phiên bản cuối cùng ở dạng 16-bit. Internet Explorer 5.01, một phiên bản sửa lỗi, được phát hành vào tháng 12 năm 1999. Windows 2000 có phiên bản này. Internet Explorer 5.5 tiếp nối vào tháng 7 năm 2000, tăng cường khả năng xem thử trước khi in, hỗ trợ chuẩn CSS và HTML, và API cho lập trình viên; phiên bản này đi cùng với Windows Me. Phiên bản 5.5 cũng hỗ trợ mã hóa 128-bit. Tuy nhiên, phiên bản 5 là phiên bản cuối cùng dành cho MacUNIX. Phiên bản 5.5 là phiên bản cuối cùng có Chế độ Tương thích, cho phép Internet Explorer 4[19] có thể chạy song song với 5.x[8][20]. Nhóm IE lúc nào đã lên đến hơn 1000 người vào năm 1999, tiêu tốn 100 triệu USD mỗi năm[4][5].

Thị phần vào tháng 2 năm 2005 [21]
IE4 - 0.07%
IE5 - 6,17%
IE6 - 82,79%

Internet Explorer 6 phát hành vào ngày 27 tháng 8 năm 2001, một vài tháng trước khi Windows XP ra mắt. Phiên bản này bao gồm cải tiến DHTML, các khung chứa nội dung, và hỗ trợ một phần CSS cấp 1, DOM cấp 1 và SMIL 2.0[22]. Bộ máy MSXML cũng được cập nhật lên phiên bản 3.0. Các tính năng mới khác bao gồm một phiên bản mới của Internet Explorer Administration Kit (IEAK), thanh Trình diễn, tích hợp Windows Messenger, thu thập lỗi, tự thay đổi kích thước hình ảnh, P3P, và trải nghiệm giao diện mới giống như phong cách hình ảnh Luna của Windows XP, khi dùng trong Windows XP. Internet Explorer 6.0 SP1 có thêm những cải tiến bảo mật và phát hành cùng lúc với phiên bản vá XP SP1. Vào năm 2002, giao thức Gopher đã bị tắt và không còn được hỗ trợ trong Internet Explorer 7[23]. Internet Explorer 6.0 SV1[24] phát hành vào ngày 6 tháng 8 năm 2004 dành cho Windows XP SP2 và đưa nhiều cải tiến bảo mật và các nút có màu mới trên giao diện. IE6 đã cập nhật biểu trưng "chữ e màu xanh" sang màu xanh nhạt hơn và có hình dáng 3 chiều hơn[8].

Internet Explorer 7 phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 2006. Nó gồm các sửa lỗi, cải tiến hỗ trợ các tiêu chuẩn web, duyệt theo thẻ với tính năng xem trước và quản lý thẻ, một hộp tìm kiếm tích hợp nhiều bộ máy, bộ đọc mẩu tin mạng, hỗ trợ Tên miền quốc tế hóa (IDN), và bộ lọc chống lừa đảo. Với IE7, Internet Explorer đã được tách ra khỏi Windows Shell - không như các phiên bản khác, Internet Explorer ActiveX control không còn đặt trên tiến trình của Windows Explorer, mà chạy trên một tính trình Internet Explorer riêng biệt. Nó được kèm trong Windows Vista và Windows Server 2008, và có thể tải về cho Windows XP Service Pack 2 trở về sau, và Windows Server 2003 Service Pack 1 trở về sau. Bản phát hành nguyên thủy của Internet Explorer 7 đòi hỏi máy tính phải vượt qua quy trình kiểm tra Windows Genuine Advantage trước khi cài đặt, nhưng vào ngày 5 tháng 10 năm 2007, Microsoft đã bỏ yêu cầu này. Theo như một số thống kê cho thấy, đến giữa năm 2008, Internet Explorer 7 đã vượt qua Internet Explorer 6 về số người sử dụng[25].

Internet Explorer 8 phát hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2009. Nó đã được phát triển trễ nhất là từ tháng 8 năm 2007[26]. Vào ngày 5 tháng 3 năm 2008, bản beta công cộng đầu tiên (Beta 1) được phát hành cho công chúng[27]. Vào ngày 27 tháng 8 năm 2008, bản beta công cộng thứ hai (Beta 2) được phát hành[28]. Nó hỗ trợ Windows XP SP2 và SP3, Windows Server 2003 SP2, Windows VistaWindows Server 2008 trên cả kiến trúc 32-bit lẫn 64-bit[29]. Internet Explorer 8 (IE8) RC1 được phát hành vào ngày 26 tháng 1 năm 2009. Bảo mật, dễ dùng, và những cải tiến về RSS, CSS, và hỗ trợ Ajax là những ưu tiên của Microsoft dành cho IE8[30][31]. Nó tương thích chặt hơn với các tiêu chuẩn web, gồm có tương thích đầy đủ với Cascading Style Sheets 2.1[32]. Tất cả các thay đổi này cho phép Internet Explorer 8 vượt qua kiểm tra Acid2[33]. Tuy nhiên, để ngăn ngừa các vấn đề về tương thích, IE8 cũng kèm cả khả năng hiển thị kiểu IE7. Các trang không muốn chuyển đổi giao diện theo IE8 có thể tắt sự thay đổi này bằng cách thêm một thẻ vào phần HEAD của trang web. IE8 cũng kèm thêm nhiều cải tiến đối với JavaScript cũng như tăng cường hiệu năng, mặc dù nó vẫn chưa vượt qua được kiểm tra Acid3, với phiên bản 8.0 RC1 ghi được 20/100 điểm. Nó bao gồm sự hỗ trợ Accelerators - cho phép hỗ trợ ứng dụng web được kích hoạt mà không cần gọi tường minh - và WebSlices - cho phép các thành phần trang được đăng ký và theo dõi từ một Favorites Bar có sẵn. Các tính năng khác gồm có tính năng duyệt riêng tưInPrivate, và bộ lọc lừa đảo SmartScreen [34].
Internet Explorer 9 (viết tắt IE9) là phiên bản hiện tại của trình duyệt web Internet Explorer của hãng Microsoft. Nó được phát hành chính thức vào ngày 14 tháng 3 năm 2011. Internet Explorer 9 hỗ trợ một vài đặc điểm CSS 3, hỗ trợ nhúng ICC v2 hoặc hỗ trợ cấu hình màu v4 thông qua Windows Color System, đồng thời đã cải thiện hiệu năng JavaScript. Nó cũng có tính năng tăng tốc quá trình kết xuất đồ họa bằng cách sử dụng Direct2D, tăng tốc kết xuất văn bản nhờ sử dụng DirectWrite, tăng tốc kết xuất video thông qua Media Foundation, hỗ trợ hình ảnh được cung cấp bởi Windows Imaging Component, và khả năng in ấn độ trung thực cao hỗ trợ bởi định dạng văn bản XPS. IE9 cũng hỗ trợ thành phần HTML5 video, đánh dấu audio và định dạng font cho các trang web (Web Open Font Format). Microsoft đã phát hành IE9 như là một phiên bản riêng (out-of-band) mà nó không gắn liền với lịch sử phát hành của các phiên bản hệ điều hành Windows đặc biệt như trước đây.

Hệ điều hành yêu cầu của IE9 là Windows 7, Windows Server 2008 R2, Windows Vista Service Pack 2 hay Windows Server 2008 SP2 với phiên bản update. IE9 không hoạt động trên Windows XP được. IE9 cũng được xây dựng cho cả hai nền tảng 32-bit và 64-bit.

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Internet Explorer http://www.tatanka.com.br/ http://www.tatanka.com.br/ies4linux/page/Beta http://www.tatanka.com.br/ies4linux/page/Main_Page http://arstechnica.com/news.ars/post/20070502-micr... http://www.axistive.com/smil-standards-and-microso... http://www.bleepingcomputer.com/virus-removal/remo... http://www.blooberry.com/indexdot/history/netscape... http://www.cnn.com/TECH/9709/30/ms.explorer/ http://www.cnn.com/TECH/computing/9810/08/browser.... http://www.codedread.com/svg-support.php